Tôn giáo Baha'i


Tôn giáo Baha’i là một tôn giáo độc lập trên thế giới, có nguồn gốc thiêng liêng, phát xuất từ Ba Tư (hiện tại Iran) lan rộng khắp toàn cầu. Baha’i, theo ngữ Ả Rập nghĩa là "người noi theo vinh quang", ám chỉ Đức Baha'u'llah (có nghĩa là vinh quang của Thượng đế), tức là người sáng lập tôn giáo.[1][2]
Tôn giáo Baha’i bắt nguồn từ phong trào tôn giáo Babi ra đời ở Ba Tư, kéo dài từ năm 1844-1852. Người sáng lập tôn giáo Babi là Đức Bab, người đã tiên đoán sự xuất hiện của Đức Baha'u'llah. Trước đây đã trở thành một tín đồ của Đức Bab, Đức Baha'u'llah đã bị bức hại và bị giam cầm vào năm 1852 trong một ngục tối ở Tehran, nơi Ngài nhận được sự mặc khải thiêng liêng của chính mình. Năm 1863, Đức Baha'u'llah tiết lộ sứ mệnh của Ngài với tư cách là Đấng Biểu Hiện của Thượng đế, dạy rằng nhân loại là một, chỉ có một Thượng Đế duy nhất, và tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều là một phần của sự mặc khải Thiêng liêng đang liên tục mở ra. Ngài kêu gọi các nhà cầm quyền trên thế giới giải quyết các tranh chấp của họ, tuyên bố Hòa bình Vĩ đại nhất và cùng nhau xây dựng một nền văn minh ngày càng tiến bộ, được thế giới đón nhận một cách vững chắc dựa trên các nguyên tắc tâm linh.[1]
Đức Baha'u'llah đã bị lưu đày khỏi Ba Tư tới Đế quốc Ottoman, nơi ông đã viết giáo lý của mình; Đức Baha'u'llah cuối cùng đã bị lưu đày bởi chính quyền để Acre (Akko), nơi Ngài đã viết một số tác phẩm quan trọng nhất của mình. Năm 1892, Ngài thăng thiên ở Bahji.[1] Sau khi Đức Baha'u'llah thăng thiên, quyền lãnh tôn giáo Baha’i được truyền cho trưởng nam của ông là Abbas Effendi tức là Đức 'Abdu'l-Baha. Trước khi thăng thiên, Đức Abdu’l-Baha đã chỉ định cháu ngoại của mình là Đức Shoghi Effendi làm Giáo hộ và thủ lĩnh tinh thần tôn giáo Baha'i. Sau khi Đức Shoghi Effendi qua đời, nền quản trị được chuyển sang Toà Công lý Quốc tế, ngày nay là cơ quan Quản trị Tối cao của tôn giáo Baha'i.[1] Hiện tôn giáo Baha’i thành lập tại 235 quốc gia, lãnh thổ ở khắp thế giới, có khoảng 8 triệu tín đồ thuộc hơn 2.100 dân tộc và các nhóm bộ lạc. Tôn giáo Baha’i đứng thứ hai sau Thiên chúa giáo về mức độ lan rộng địa lý của nó.[2]
Giáo lý[sửa]

Tín ngưỡng Baha'i được thành lập dựa trên những lời dạy bằng văn bản của Đức Baha'u'llah, và những lời giải thích của Đức 'Abdu'l-Baha và Đức Shoghi Effendi. Trong số những điều cơ bản nhất trong những lời dạy của Đức Baha'u'llah là: nhân loại là một, chỉ có một Thượng Đế duy nhất, và tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều là một phần của sự mặc khải Thần thánh đang liên tục mở ra.[1]
Đức Baha'u'llah dạy rằng mục đích của đời sống là hiểu biết và tôn thờ Thượng đế, đồng thời xây dựng một nền văn minh tiến bộ không ngừng, thống nhất. Sự thống nhất thế giới là giai đoạn cuối trong cuộc tiến hóa của nhân loại tới chỗ trưởng thành, và sẽ được thực hiện dựa trên sự nhìn nhận của cá nhân về nguyên lý nhân loại thống nhất này như là nguyên lý tâm linh chủ yếu của đời sống hiện đại. Ngài dạy rằng các tôn giáo lớn trên thế giới đều có nguồn gốc thiêng liêng chung, và tất cả đều do Thượng Đế mặc khải ở những thời đại khác nhau tùy theo nhu cầu và khả năng tiến hóa của loài người. Vì vậy, sứ giả của Thượng Đế như Đức Moses, Đức Phật, Đức Chúa Giê-xu và Đức Muhammad đã được gửi vào các thời điểm khác nhau trong lịch sử với giáo lý khác nhau để phù hợp với nhu cầu thay đổi xã hội, nó còn đem lại cơ tin nhắn cùng.[1]
Hòa bình phổ quát[sửa]

Đức Baha'u'llah cũng măc khải nhiều nguyên lý liên quan với nền hòa bình thế giới. Ngài dạy rằng việc thiết lập một nền văn minh thế giới hòa bình là mục tiêu cao nhất của nhân loại. Vì mục đích này, Đức Baha'u'llah đã kêu gọi các nhà cầm quyền trên thế giới giải quyết các tranh chấp của họ, tuyên bố Hòa bình Vĩ đại nhất và cùng nhau xây dựng một nền văn minh tiến bộ không ngừng, được thế giới đón nhận một cách vững chắc dựa trên các nguyên tắc tâm linh.[1][3]
Cũng vì mục đích này, Baha'u'llah đã giải thích nhiều nguyên lý xã hội gắn liền với hòa bình này, bao gồm:[1][3]
- Tìm hiểu chân lý một cách độc lập;
- Thống nhất nhân loại như một gia đình sống cùng nhau trên địa cầu;
- Hủy bỏ thành kiến dưới mọi hình thức;
- Sự tương ứng của khoa học và tôn giáo như những nguồn kiến thức;
- Bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống;
- Giáo dục phổ thông bắt buộc;
- Chấp nhận một ngôn ngữ phụ trợ toàn cầu;
- Xóa bỏ sự phân biệt giàu nghèo một cách thái quá;
- Thiết lập một pháp viện quốc tế để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia;
- Khẳng định sự công bằng là nguyên tắc chủ đạo trong quan hệ giữa người và người.
Đời sống tinh thần[sửa]

Đức Baha'u'llah dạy rằng mục đích của đời sống là hiểu biết và tôn thờ Thượng đế. Bản chất của con người được cho là kép: vật chất và tâm linh. Bản chất tâm linh là bản chất chân chính và biểu hiện cao nhất, trưởng thành nhất của năng lực con người. Linh hồn lý trí là căn tính đích thực của con người, ý chí tự do và sức mạnh hiểu biết của nó cho phép cả cá nhân và xã hội phát triển và tiến bộ. Cầu nguyện, thiền định, và đọc Thánh thư là những phương tiện để linh hồn lý trí giao tiếp với Đáng Sáng Tạo, và là nguồn hướng dẫn và sức mạnh tâm linh.[4] Mỗi tín đồ được khuyến khích đọc các bài kinh thiêng liêng hàng ngày và cầu nguyện suy ngẫm về họ, để hiểu sâu hơn về giáo lý của Bahá'í.
Tuy nhiên, vì kiến thức và hiểu biết phải được đưa vào hành động để tạo ra những tác động có ý nghĩa, nên việc thờ phượng phải đi đôi với việc phụng sự để có lợi nhất. Bước đi trên con đường phụng sự tới Thượng Đế và nhân loại mang lại ý nghĩa cuộc sống và chuẩn bị cho con người khoảnh khắc trong cuộc sống mình khi linh hồn rời khỏi thể xác và tiếp tục cuộc hành trình bất tận tiến đến Đáng Sáng Tạo.[4]
Đời sống cộng đồng[sửa]

Không có tu sỹ trong tôn giáo Baha’i. Đức Baha'u'llah đặt trách nhiệm học tập và thực hành tôn giáo cho mỗi tín đồ Baha'i. Do đó, mỗi tín đồ được khuyến khích đọc các bài kinh thiêng liêng hàng ngày và cầu nguyện suy ngẫm về họ, để hiểu sâu hơn về giáo lý Bahá'í.
Những tín đồ có thể tham gia các buổi cầu nguyện công khai để cùng cầu nguyện và suy tư với những người khác, bất kể nguồn gốc tôn giáo của họ. Họ cũng có thể chọn tham gia các nhóm học tập do viện đào tạo địa phương điều phối, nhóm mà phục vụ mục đích kép là nâng cao năng lực phục vụ nhân loại và hiểu sâu hơn về các nguyên tắc do Baha'u'llah dạy. Dựa trên nhiều thập kỷ kinh nghiệm trong phát triển kinh tế và xã hội trên toàn thế giới, các nhóm công chúng này mang đến cơ hội cho tất cả công dân được đào tạo để xây dựng các cộng đồng yêu thương và thịnh vượng. Các kỹ năng phụng sự cụ thể, chẳng hạn như dạy các lớp giáo dục đạo đức cho trẻ em và hoạt động các nhóm nâng cao năng lực đạo đức cho thanh thiếu niên, được phát triển thông qua việc nghiên cứu các tài liệu được phát triển đặc biệt.
Những Thánh lễ và những dịp khác[sửa]
Các hội đồng tinh thần địa phương thường tổ chức nhiều hoạt động khác nhau tại một địa phương, bao gồm những ngày thánh lễ, và các trại theo mùa để đào sâu cộng đồng và thông công. Những buổi họp này thường gồm có cầu nguyện, học hỏi giáo lý, thảo luận, những hoạt động xã hội. Cũng quan trọng là các cuộc họp mang tính chất hành chính như Lễ 19 ngày. Ngoài phần tâm linh và xã hội, Lễ 19 ngày cung cấp cho các tín đồ cơ hội nhận tin tức từ và đưa ra phản hồi cho các cơ cấu Baha'i, cùng nhau tham khảo ý kiến về các vấn đề cộng đồng và xây dựng kế hoạch hành động địa phương.[1]
Lịch sử[sửa]
Đức Bab[sửa]

Tôn giáo Baha’i bắt đầu ở Ba Tư vào giữa thế kỷ 19, nguồn từ phong trào tôn giáo Babi, kéo dài từ năm 1844-1852. Người sáng lập tôn giáo Babi là Siyyid Ali Muhammad, được gọi là Đức Bab (nghĩa là cái Cửa). Nổi tiếng từ khi còn nhỏ với khả năng giải thích những bí ẩn tôn giáo khiến các học giả bối rối, Đức Bab thường xuyên lui tới các cuộc tụ tập của Siyyid Kazim, một tín đồ của giáo phái Shaykhi của Hồi giáo Shia, người đã dạy rằng Mahdi, một nhân vật thiên sai được người Hồi giáo chờ đợi, sẽ sớm xuất hiện. Trước khi chết, Siyyid Kazim đã đưa ra một bài học cuối cùng, trong đó ông kêu gọi những người theo dõi của mình tản ra và tìm kiếm Mahdi, người mà ông tuyên bố đã xuất hiện trên thế giới. Một trong những tín đồ chân thành nhất của ông là Mulla Husayn, người đã cầu nguyện và nhịn ăn trong 40 ngày trước khi rời nhà để tìm Mahdi ở thành phố Shiraz. Đến Shiraz, ông nhanh chóng gặp Siyyid Ali Muhammad, Người đã mời ông đến nhà của mình uống trà. Tối hôm đó, Siyyid Ali Muhammad hỏi Mulla Husayn về việc tìm kiếm Mahdi, và hỏi ông ta về những đặc điểm của Người mà ông tìm kiếm. Và sau khi kiên nhẫn lắng nghe mô tả của Mulla Husayn, Siyyid Ali Muhammad đã thốt lên, "Kìa, tất cả những thuộc tính này đều được hiển thị trong Tôi!" Với điều này, Ngài tuyên bố rằng anh ta là Đức Bab, là Mahdi đã hứa, và thông báo cho Mulla Husayn kinh ngạc rằng ông đã tìm thấy đối tượng của nhiệm vụ của mình.
Vì lý do này, Đức Bab đã bị giam giữ và những người theo tôn giáo Babi bị bức hại. Bab chết do bị hành quyết bởi một đội bắn vào năm 1850. Thi thể của Bab được tín đồ cất giấu trong nhiều năm sau khi ông qua đời, và cuối cùng, vẫn được bí mật đưa vào Đất Thánh. Trong một lần thăm viếng của Ngài đến Haifa vào năm 1890, Đức Baha'u'llah chỉ ra cho con trai của ông tại chỗ trên núi Carmel, nơi thi thể của Bab nên được chôn cất.[1]
Đức Baha'u'llah[sửa]
Mirza Husayn Ali, tức là Đức Baha'u'llah, là một người theo tôn giáo Babi nổi tiếng vì đức hạnh và trí tuệ của mình. Năm 1852, Đức Baha'u'llah đã bị bức hại và bị giam cầm vào trong một ngục tối ở Tehran, được gọi là Siyah-Chal—"Hố đen", cùng với một số tín đồ khác của Đức Bab. Trong nhà tù tối tăm và bẩn thỉu này, Đức Baha'u'llah nhận được một sự mặc khải thần linh rằng Ngài là người mà Đức Bab đã báo trước.
Đức Baha'u'llah đã bị lưu đày khỏi Ba Tư tới Đế quốc Ottoman, nơi ông đã viết giáo lý của mình; Đức Baha'u'llah cuối cùng đã bị lưu đày bởi chính quyền để Acre (Akko), nơi Ngài đã viết một số tác phẩm quan trọng nhất của mình. Năm 1892, Ngài qua đời ở Bahji.[1] Khi Đức Baha'u'llah qua đời, quyền lãnh tôn giáo Baha’i được truyền cho trưởng nam của ông là Abbas Effendi, được gọi là Đức Abdu'l-Baha (1844–1921) (nghĩa là tôi tớ của Baha, tức là tôi tớ của Đức Baha'u'llah). Trước khi chết, Đức Abdu’l-Baha đã chỉ định cháu ngoại của mình là Đức Shoghi Effendi (1897–1957) làm Giáo hộ và thủ lĩnh tinh thần tôn giáo Baha'i. Sau khi Đức Shoghi Effendi qua đời, nền quản trị được chuyển sang Toà Công lý Quốc tế, từ đây tôn giáo Baha'i đã hình thành và phát triển.[1]
Hiện đại[sửa]
Số tín đồ[sửa]

Trước những năm 1950, tôn giáo Baha’i có tín đồ ở phần lớn các nước Hồi giáo; trên 90% tín đồ Baha'i là người Iran, nhưng hiện nay chỉ chiếm khoảng 6% tổng số tín đồ trên thế giới. Ấn Độ là quốc gia có số lượng tín đồ Baha'i đông nhất thế giới, khoảng 2 triệu người. Có những nghiên cứu cho rằng, phần lớn các tín đồ Baha'i trong các nước thuộc thế giới thứ ba là nông dân và công nhân ở đô thị, còn ở các nước Tây Âu thì tín đồ Baha'i phần lớn là thuộc tầng lớp trung lưu da trắng.
Năm 1921, tín đồ Baha’i có ở 35 nước trên thế giới. Năm 1990, có 4,9 triệu tín đồ ở 214 quốc gia và vùng lãnh thổ bao gồm đại diện gần 2.000 sắc tộc và bộ lạc trên thế giới. Năm 2000, có hơn 5 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đến nay (năm 2010), có khoảng 7 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc hơn 2.100 sắc tộc.[5]
Phát triển cộng đồng kinh tế xã hội[sửa]
Năm 1948, cộng đồng Baha’i quốc tế được chính thức chấp nhận tại Liên Hợp Quốc là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển. Đến tháng 5 năm 1970, tham gia trên cương vị tư vấn tại Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC). Đại diện tôn giáo Baha’i đã được bầu là Chủ tịch các Uỷ ban của Tổ chức phi Chính phủ tại Liên hợp quốc. Ngoài ra, cộng đồng Baha'i quốc tế có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức khác của Liên hợp quốc như: Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ trẻ em của Liên hợp quốc (UNICEF) và đặc biệt là năm 1991, Quỹ phát triển vì Phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) đã tài trợ cho cộng đồng Baha'i quốc tế trong một dự án sử dụng các phương tiện truyền thông để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ…
Hệ thống[sửa]


Ngày nay, Tòa Công lý Quốc tế là cơ quan quản trị tối cao của tôn giáo Baha'i do Baha'u'llah thiết định trong thánh kinh Kitab-i-Aqdas. Tòa có chín ủy viên, được đại hội đại biểu Quốc tế bầu lên với nhiệm kỳ năm năm. Abdu'l-Baha bổ nhiệm cháu nội của mình, Shoghi Effendi, làm Đức Giáo hộ. Tòa Giáo hội và Toà Công lý Quốc tế hoạt động cùng nhau, thực hiện các chức năng giải thích tôn giáo và luật pháp. Đức Giáo hộ không có con và người không chỉ định ai trong thân tộc Baha'u'llah để làm người kế vị, do đó không có Đức Giáo hội kế tiếp. Tuy nhiên cơ cấu Toà Giáo hội vẫn tiếp tục tồn tại qua những cơ cấu được chỉ định như các Cố vấn Châu lục, các Tùy viên...
Những cơ cấu được bầu chọn[sửa]
Bên cạnh hệ thống thống nhất trên, tôn giáo Baha’i còn có một hệ thống dân chủ, đó là các hội đồng tinh thần được bầu cử bằng phiếu kín. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tinh thần là lo việc truyền giáo, tổ chức các cuộc lễ, các lớp giáo lý, các cuộc họp, các thánh lễ, in ấn kinh sách, kiểm duyệt các ấn phẩm về tôn giáo Baha’i, giải quyết các vấn đề liên quan tới đời sống tín đồ, bảo vệ Đức tin, nhắc nhở tín đồ trong cộng đồng tuân thủ các luật lệ tôn giáo, chính sách, pháp luật của nhà nước, tổ chức công tác từ thiện xã hội, đảm nhận vấn đề Quỹ của đạo và chỉ định các tín đồ vào các Uỷ ban đặc biệt để giúp việc cho Hội đồng.
Hội đồng tinh thần của tôn giáo Baha’i ở 3 cấp đều được bầu bằng phiếu kín, không ứng cử, đề cử. Mỗi tín đồ được ghi một danh sách gồm tín đồ tôn giáo Baha’i trưởng thành trong cộng đồng mà mình xét thấy có đủ đức tính tốt, có khả năng và kinh nghiệm, sau khi kiểm phiếu, 9 người có số phiếu cao nhất sẽ được đắc cử vào Hội đồng tinh thần. Bên cạnh Hội đồng tinh thần 3 cấp là những nhóm cá nhân có vai trò làm cố vấn, là những người có tài năng, kinh nghiệm được chỉ định để làm tư vấn cho các Hội đồng tinh thần và các tín đồ.
Những cơ cấu được chỉ định[sửa]
Ngoại ra những cơ cấu được bầu chọn, có vai trò điều hành, còn có các tổ chức Baha'i được chỉ định có vai trò cố vấn, bao gồm Trung tâm Truyền giáo Quốc tế, những Ban Cố vấn Châu lục, và Ban Tùy viên.
Các thành viên của Trung tâm Truyền giáo Quốc tế được Tòa Công lý Quốc tế chỉ định 5 năm một lần, vai trò chính của họ là phối hợp nỗ lực Truyền bá Chánh Đạo trên toàn thế giới. Trung tâm Truyền giáo Quốc tế hợp tác chặt chẽ với các Cố vấn Châu lục, những người có vai trò mở rộng nhiệm vụ của các Giáo thủ của Chánh Đạo là tuyên truyền và bảo vệ tôn giáo Baha'i trên toàn thế giới. Đổi lại, các Cố vấn Châu lục làm việc chặt chẽ với các Tùy viên ở một hoặc nhiều quốc gia, những người mở rộng công việc của các Cố vấn đến cấp khu vực và địa phương. Các Tùy viên cũng có thể chỉ định những phó tuy viên để giúp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.
Tôn giáo Baha'i tại Việt Nam[sửa]
- Bài chi tiết: Bahá'í tại Việt Nam

Tôn giáo Bahá'í được giới thiệu lần đầu tiên vào Việt Nam trong những năm 1920, sau khi Abdu'l-Baha đặt tên Đông Dương thuộc Pháp làm điểm đến tiềm năng cho giáo viên của Baha'i.[6] Sau một số chuyến viếng thăm ngắn từ các giáo viên du lịch trong suốt nửa đầu của thế kỷ 20, nhóm Bahá'i đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại Sài Gòn vào năm 1954, với sự xuất hiện của Shirin Fozdar, một nữ tín đồ người Ấn Độ.[5]
Những năm 1950 và 1960 được đánh dấu bởi những thời kỳ tăng trưởng nhanh; Mặc dù cuộc chiến đang diễn ra đang ảnh hưởng đến đất nước, dân số Bahá'i đã lên tới khoảng 95.000 người ủng hộ vào năm 1975, với một số ước tính đạt 200.000 người.[5][7] Sau khi kết thúc chiến tranh, Tôn giáo Bahá'í đã bị cấm từ năm 1978 đến năm 1992, dẫn đến sự sụt giảm số lượng cộng đồng. Cuối cùng, những hạn chế đã được nới lỏng và cộng đồng Baha'i đã có thể nộp đơn xin công nhận chính thức.
Tôn giáo Baha’i Việt Nam được chứng nhận đặng ký hoạt động tôn giáo từ tháng 3 năm 2007. Ngày 21 tháng 3 năm 2008, Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam đã tiến hành tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất để bầu Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt Nam và thông qua Hiến chương, chương trình hoạt động của đạo. Ngày 14 tháng 7 năm 2008, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định công nhận tổ chức đối với Cộng đồng tôn giáo Bahá’í Việt Nam. Hiện nay có hơn 8.000 tín đồ Baha'i phân bố ở 45 tỉnh/thành phố.[7]
Hình ảnh[sửa]
Những hoạt động Baha'i[sửa]
-
Một nhóm học tập ở Úc.
-
Một cuộc tụ họp thanh thiếu niên ở Malaysia.
-
Giờ trò chơi tại một lớp thiếu nhi ở Colombia.
-
Những đền thờ Baha'i[sửa]
- Bài chi tiết: Đền thờ
-
Đền thờ Baha'i ở Chicago (Wilmette), Mỹ.
-
Đền thờ Baha'i ở Santiago, Chile.
-
Đền thờ Baha'i ở Kampala, Uganda.
Những trung tâm Baha'i[sửa]
- Bài chi tiết: Trung tâm Baha'i
-
Trung tâm Bahá'í ở Đà Nẵng.
-
Văn phòng Baha'i ở Tp.HCM.
-
Trung tâm Bahá'í ở Adelaide, Úc.
-
Trung tâm Bahá'í ở San Diego, Mỹ.
Xem thêm[sửa]
Liên kết ngoài[sửa]
Tham khảo[sửa]
- ↑ 1,00 1,01 1,02 1,03 1,04 1,05 1,06 1,07 1,08 1,09 1,10 1,11 Esslemont, J.E. (1980). Bahá'u'lláh and the New Era [Đức Baha'u'llah và Kỷ nguyên Mới] (ấn bản 5). Wilmette, Illinois, USA: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 0-87743-160-4.
- ↑ 2,0 2,1 Cộng đồng Tôn giáo Baha'i Việt Nam. Tôn giáo Baha’i.
- ↑ 3,0 3,1 Hòa bình phổ quát. Cộng đồng Tôn giáo Baha'i Việt Nam.
- ↑ 4,0 4,1 Đời sống tinh thần. Cộng đồng Tôn giáo Baha'i Việt Nam.
- ↑ 5,0 5,1 5,2 Lược Sử Tôn Giáo Baha'i Tại Việt Nam: 50 Năm - Một Chặng Đường, 1954-2004. Cộng đồng Tôn Giáo Baha'i Việt Nam. 2004. tr. 76.
- ↑ `Abdu'l-Bahá (1991) [1916–17]. Tablets of the Divine Plan . Wilmette, Illinois, USA: Bahá'í Publishing Trust. tr. 40–42. ISBN 0877432333.
- ↑ 7,0 7,1 Nguyễn Xuân Huân. “Giới thiệu khái quát về tôn giáo Baha'i”. Ban Tôn giáo Chính phủ. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2017.