Bahaipedia
Bahaipediaدانشنامه بهائی
Trình đơn
Trợ giúp về MediaWiki
Trang ngẫu nhiên
Thay đổi gần đây
Tại dự án khác
Bahai9
Bahai.media
Công cụ
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Tải lên tập tin
Trang đặc biệt
Tải về bản in
Liên kết thường trực
Thông tin trang
Khoản mục Wikibase
Trang
Thảo luận
Xem lịch sử
Chưa đăng nhập
Tin nhắn
Đóng góp
Tạo tài khoản
Đăng nhập
Navigation
Navigation
Navegación
Navigation
ナビゲーション
Điều hướng
导航
Navegação
ناوبری
Навигация
Trợ giúp về MediaWiki
Trang ngẫu nhiên
Thay đổi gần đây
Tại dự án khác
Bahai9
Bahai.media
Learn more
Weitere Informationen
Aprender más
En savoir plus
詳しく読む
Tìm hiểu thêm
了解更多
Saiba mais
یاد بگیرید بیشتر
Узнать больше
Tôn giáo Baha'i
Đức Baha'u'llah
Đức ‘Abdu’l-Baha
Tools
Werkzeuge
Herramientas
Outils
ツール
Công cụ
工具
Ferramentas
ابزارها
Инструменты
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Tải lên tập tin
Trang đặc biệt
Tải về bản in
Liên kết thường trực
Thông tin trang
Khoản mục Wikibase
Translations
Übersetzungen
Traducciones
Traductions
各言語版
Bản dịch
翻译
Traduções
به زبان‌های دیگر
Переводы
Deutsch
English
Español
فارسی
Français
日本語
Português
Русский
中文

Đức Baha'u'llah

Từ Bahaipedia
(Đổi hướng từ Bahá'u'lláh)
Bước tới:điều hướng, tìm kiếm
Bahá'u'lláh
Lăng mộ và đền thờ của Bahá'u'lláh tại vườn Bahá'í, Acre
SinhBản mẫu:Transl
Bản mẫu:Ngày sinh
Tehran, Ba Tư (Ngày nay Iran)
MấtBản mẫu:Ngày mất và tuổi
`Akka, Vilayet Beirut, Đế quốc Ottoman, (Ngày nay Israel)
Nổi tiếng vìNgười sáng lập tôn giáo Bahá'í
Kế nhiệmAbdu'l-Bahá

Bahá'u'lláh (/bɑːhɑːʊlə/; tiếng Ả Rập: بهاء الله, nghĩa là Vinh quang của Thượng đế;[1] 12 tháng 11 năm 1817 - 29 tháng 5 năm 1892), tên khai sinh Mirza Husayn-`Alí Nuri (Ba Tư: میرزا حسینعلی نوری), là người sáng lập tôn giáo Bahá'í. Ông tuyên bố mình là đấng tiên tri kỳ vọng của tôn giáo Babi, một nhánh tách ra từ thế kỷ 19 của đạo Shi'a,[2] nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn ông tuyên bố mình là một Đấng Biểu Hiện của Thượng đế gửi tới để thực hiện những kỳ vọng chung của Hồi giáo, Thiên chúa giáo, và các tôn giáo lớn.[1][3]

Có hai hình ảnh được biết đến của Đức Bahá'u'lláh. Trừ phi hành hương, người theo tôn giáo Baha'i không muốn xem hình ảnh của Ngài trước công chúng, hoặc thậm chí để ảnh Ngài ở nhà riêng của họ, đây được coi là biểu hiện của việc tôn trọng.

Mục lục

  • 1 Tiểu sử
    • 1.1 Tuổi thơ
    • 1.2 Là một tín đồ của Đức Bab
    • 1.3 Lưu đày và Mặc khải mới
  • 2 Giáo lý
  • 3 Liên kết ngoài
  • 4 Chú thích
  • 5 Tham khảo

Tiểu sử[sửa]

Tuổi thơ[sửa]

Mirza Husayn-Ali Nuri, giáng sinh ngày 12 tháng 11 năm 1817 tại Tihran, thủ đô nước Ba tư. Từ khi được sinh ra, Đức Bahá'u'lláh không bao giờ khóc, Ngài luôn ở trong trạng thái rất điềm tĩnh. Mẫu thân của Ngài rất kinh ngạc, và không bao lâu sau mọi người xung quanh đều nhìn thấy rõ ràng rằng Con trai của bà hoàn toàn khác với những đứa trẻ khác. Khi Đức Bahá'u'lláh còn nhỏ Ngài thể hiện những phẩm chất cực kỳ đặc biệt và một sự khôn ngoan bẩm sinh cũng như kiến thức tuyệt vời của Ngài. Ngài rất thích cuộc sống ở ngoài trời. Ngài dành hầu hết thời gian của mình ở trong vườn hoặc trên cánh đồng. Cực kỳ tử tế và rộng lượng, Ngài có một lực hút không cưỡng nổi mà tất cả mọi người đều có thể cảm nhận được. Người dân vây xung quanh Ngài, trẻ con dành nhiều thời gian bên Ngài và những quan chức ở triều đình cũng muốn ở cạnh Ngài.

Sinh ra trong một gia đình quyền quý, có gốc gác tổ tiên từ những vương triều Ba tư hùng mạnh xa xưa, Ngài khước từ chức Thượng thư dành cho Ngài trong triều đình, và dồn năng lực vào các hoạt động nhân đạo, cho đến những năm 1840 người đời đã tôn xưng Ngài là “Cha của người nghèo”.

Là một tín đồ của Đức Bab[sửa]

Đức Bahá'u'lláh đã trở thành tín đồ của Đức Bab tại Ba Tư năm 1845, trở thành người bảo trợ hàng đầu của Tôn giáo Babi ​vì đức hạnh và trí tuệ của mình, và cuối cùng làm thay đổi dòng lịch sử của đất nước Ba-Tư.

Sứ mạng của Đức Baha’u’llah bắt đầu tại hầm giam tù Síyáh-Chál, một ngục tối khét tiếng ở Tehran vào tháng 8 năm 1852 khi Đức Baha’u’llah nhận được những khải lộ đầu tiên về Sứ mạng mà Đức Bab tiên báo.[1][4] Cuối cùng, vẫn không có sự xét xử hoặc sự can thiệp nào, Đức Baha’u’llah được thả ra khỏi nhà tù và tức khắc bị lưu đày khỏi quê hương Ngài sang Baghdad, nước Iraq láng giềng, lúc bấy giờ thuộc quyền cai trị của Đế Quốc Ottoman. Cuộc trục xuất này mở đầu bốn mươi năm lưu đày, giam cầm và đàn áp đau đớn.

Lưu đày và Mặc khải mới[sửa]

Ngày 21 tháng 4 năm 1863, tại vườn Ridvan ở Baghdad, Đức Baha'u'llah tuyên ngôn là "Người mà Thượng đế sẽ biểu hiện", Đấng Sứ giả của Thượng Đế mà Đức Bab đã dạy các tông đồ Ngài chờ đợi. Sau đó, Ngài tiếp tục những cuộc lưu đày khác đến Constantinople, Adrianople, và cuối cùng đến Akka, thuộc vùng đất của Thánh Địa—nơi mặc dù sự khổ đau cực điểm của Đức Baha’u’llah trong Nhà Tù Lớn Nhất của thành phố ấy, cuộc lưu đày Ngài hoàn thành những lời tiên tri trong các Thánh Kinh của các tôn giáo trước. Chính tại Akka Mặt trời Chân lý đã chiếu rọi huy hoàng trọn vẹn trong 24 năm. Từ ngục tù, Ngài tuyên xưng Danh Mình và viết nhiều thư công bố Sứ điệp đến các nhà cầm quyền trên thế giới, kêu gọi họ chấm dứt các mưu toan chiến tranh và hướng về Ngài.

Khi thăng thiên vào ngày 29 tháng 5 năm 1892, Ngài vẫn là tù nhân, Đức Baha’u’llah đã thiết lập một Giao ước với các tín đồ Ngài. Ngài chỉ định con trai trưởng của Ngài là Đức Abdul-Baha, kế vị Ngài và là người có thẩm quyền giải thích Thánh ngôn của Ngài sau khi Ngài thăng thiên. Nhờ thế, Tôn giáo Baha’i giữ vững được sự thống nhất, không bị chia rẽ thành các giáo phái như các tôn giáo trong quá khứ gặp phải khi Đấng Biểu Hiện của Thượng Đế rời khỏi thế gian này.[1]

Giáo lý[sửa]

Đức Bahá'u'lláh đã viết nhiều công trình tôn giáo, đặc biệt là Kitab-i-Aqdas và Kitab-i-Íqán, tạo thành nền tảng của các giáo lý của tôn giáo Bahá'í.

Đức Bahá'u'lláh dạy rằng con người là một chủng tộc duy nhất, đã đến lúc con người cần thống nhất đất nước của mình trong một xã hội toàn cầu. Ngài giảng rằng chỉ có một Thượng đế, tất cả các tôn giáo trên thế giới đều xuất phát từ Thượng đế, và bây giờ là thời gian cho toàn thể nhân loại phải công nhận sự hợp nhất và thống nhất của nó.[5] Tương tự như các tôn giáo khác, Thượng đế được xem là nguồn gốc của tất cả các tạo vật. Tôn giáo, theo Đức Bahá'u'lláh, được tái tạo theo định kỳ bởi Đấng Biểu Hiện của Thượng đế, được hoàn thiện thông qua Đấng Biểu hiện của Thượng đế và những lời dạy của cá Ngài là nguồn gốc của các tôn giáo lớn trên thế giới trong lịch sử.[1]

Không giống như các Đấng Sứ giả tâm linh khác, người Bahá'í xem Đức Bahá'u'lláh là người đầu tiên có sứ mệnh mang sự thống nhất tinh thần của toàn bộ hành tinh thông qua việc xóa bỏ hoàn toàn nạn phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa dân tộc. Những lời dạy của Đức Bahá'u'lláh bao gồm sự cần thiết phải có một tòa án thế giới xét xử các tranh chấp giữa các quốc gia, một hệ thống cân bằng và các biện pháp thống nhất, và một ngôn ngữ chung mà mọi người trên thế giới có thể nói được. Đức Bahá'u'lláh cũng dạy rằng những chu kỳ đổi mới mặc khải sẽ tiếp tục trong tương lai, với những Đấng Biểu Hiện của Thượng đế xuất hiện hàng ngàn năm.[1]

Đức Baha'u'llah thúc giục sự chấp nhận những bước tiến đến mục đích được Ngài mệnh danh là nền “Hòa bình lớn”. Ngài dạy rằng những bước tiến này sẽ làm dịu những nỗi khổ đau và sự hư hỏng, Ngài thấy hiện ra trước mắt nhân loại cho đến khi các dân tộc trên thế giới chấp nhận Mặc khải của Thượng Đế và qua đó Nền Tối đại Hòa bình được thực hiện. Ngài dạy:

“Chắc chắn sẽ đến lúc nhu cầu bắt buộc về một sự tập hợp bao gồm mọi người sẽ được thực hiện trên toàn thế giới. Các nhà lãnh đạo và các vua trên địa cầu đến dự và tham gia vào các cuộc thảo luận, cần cứu xét những biện pháp và phương cách để đặt nền móng cho nền Đại Hòa bình giữa loài người. Nền Hòa bình đó đòi hỏi các Siêu cường phải quyết tâm hòa hợp với nhau vì sự yên ổn của tất cả các dân tộc trên thế giới. Nếu có vị vua nào dấy binh chống vua khác, tất cả phải nhất tề đứng lên ngăn chặn y. Nếu thực hiện được điều này, các nước trên thế giới không cần vũ trang, ngoại trừ mục đích duy trì an ninh trong nước và giữ gìn trật tự trong phạm vi lãnh thổ của họ... Đang sắp đến ngày tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ chấp nhận một tiếng nói thế giới và một thứ chữ viết chung. Khi điều này được hoàn thành, con người có thể đi đến bất cứ nước nào, người đó cũng có cảm tưởng như bước vào chính nhà mình... Ngày nay người nào hiến mình phụng sự toàn thể nhân loại, người đó mới thực sự là người... Người ta không nên lấy làm hãnh diện về lòng yêu nước, nhưng nên hãnh diện về lòng thương yêu toàn thể thế giới. Trái đất chỉ là một quốc gia và nhân loại là công dân của quốc gia đó” .


Liên kết ngoài[sửa]

Bản mẫu:Wikiquote

  • Các nguyên lý và công trình tôn giáo của Bahá'u'lláh

Chú thích[sửa]

  • Bahá'u'lláh (2003) [1862]. Kitáb-i-Íqán: The Book of Certitude [Kitáb-i-Íqán: Kinh Xác tín]. Wilmette, Illinois, USA: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 1-931847-08-8. 
  • Balyuzi, H.M. (1985). Eminent Bahá'ís in the time of Bahá'u'lláh (PDF). Oxford, UK: George Ronald. ISBN 0-85398-152-3. 
  • Balyuzi, Hasan (2000). Bahá'u'lláh, King of Glory. Oxford, UK: George Ronald. ISBN 0-85398-328-3. 
  • Browne, E.G. (1918). Materials for the Study of the Babi Religion. Cambridge University Press. 
  • Browne, Edward G. (1889). “Bábism”. Religious Systems of the World: A Contribution to the Study of Comparative Religion. London: Swann Sonnenschein. 
  • Buck, Christopher (2004). “The eschatology of Globalization: The multiple-messiahship of Bahā'u'llāh revisited”. Trong Sharon, Moshe. Studies in Modern Religions, Religious Movements and the Bābī-Bahā'ī Faiths. Boston: Brill. tr. 143–178. ISBN 90-04-13904-4. 
  • Buck, Christopher (tháng 6 năm 1998). “The Kitab-i Iqan: An Introduction to Baha'u'llah's Book of Certitude”. Occasional Papers in Shaykhi, Babi and Baha'i Studies 2 (5). 
  • Effendi, Shoghi (1944). God Passes By [Thượng Đế Đi Qua]. Wilmette, Illinois, USA: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 0-87743-020-9. 
  • Esslemont, J.E. (1980). Bahá'u'lláh and the New Era [Đức Baha'u'llah và Kỷ nguyên Mới] (ấn bản 5). Wilmette, Illinois, USA: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 0-87743-160-4. 
  • Farah, Caesar E. (1970). Islam: Beliefs and Observances. Woodbury, NY: Barron's Educational Series. 
  • Fozdar, Jamshed K. (1976). Buddha Maitrya-Amitabha Has Appeared. New Delhi, Indi: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 81-85091-83-8. 
  • Fádil-i-Mázindarání, Asadu'lláh (1967). Asráu'l-Áthár, Vol.I. Bahá'í Publishing Trust, Tehran. tr. 453. 
  • Hatcher, W.S.; Martin, J.D. (1998). The Bahá'í Faith: The Emerging Global Religion. Wilmette, IL: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 0-87743-264-3. 
  • Hornby, Helen biên tập (1983). Lights of Guidance: A Bahá'í Reference File. Bahá'í Publishing Trust, New Delhi, India. ISBN 81-85091-46-3. 
  • Momen, Moojan (1995). Buddhism And The Baha'i Faith: An Introduction to the Baha'i Faith for Theravada Buddhists. Oxford: George Ronald. ISBN 0-85398-384-4. 
  • Momen, Moojan (2000). Islam and the Bahá'í Faith. Oxford, UK: George Ronald. ISBN 0-85398-446-8. 
  • Momen, Moojan (2004). “Baha'i Faith and Holy People”. Trong Jestice, Phyllis G. Holy People of the World: A Cross-cultural Encyclopedia, volume 3. Santa Barbara, CA: ABC-CLIO. ISBN 1-57607-355-6. 
  • Saiedi, Nader (2008). Gate of the Heart. Waterloo, ON: Wilfrid Laurier University Press. ISBN 978-1-55458-035-4. 
  • Salmání, Ustád Muhammad-`Alíy-i (1982). My Memories of Bahá'u'lláh. Kalimát Press, Los Angeles, USA. 
  • Sears, William (2002) [1961]. Thief in the Night. Oxford, UK: George Ronald. ISBN 0-85398-008-X. 
  • Smith, Peter (2008). An Introduction to the Baha'i Faith. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-86251-5. 
  • Smith, Peter (1987). The Bábí & Bahá'í Religions: From Messianic Shí'ism to a World Religion. Cambridge: The University Press. tr. 60. ISBN 0-521-30128-9. 
  • Taherzadeh, Adib (2000). The Child of the Covenant. Oxford, UK: George Ronald. ISBN 0-85398-439-5. 
  • Taherzadeh, A. (1976). The Revelation of Bahá'u'lláh, Volume 1: Baghdad 1853-63. Oxford, UK: George Ronald. ISBN 0-85398-270-8. 
  • Tòa Công lý Quốc tế (1996). Marks, Geoffry W, biên tập. Messages from the Universal House of Justice 1963-86 [Thông điệp của Tòa Công lý Quốc tế 1963-86]. Wilmette, IL: Baha'i Publishing Trust. ISBN 0-87743-239-2. 

Tham khảo[sửa]

  1. ↑ 1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 1,5 Esslemont, J.E. (1980). Bahá'u'lláh and the New Era [Đức Baha'u'llah và Kỷ nguyên Mới] (ấn bản 5). Wilmette, Illinois, USA: Bahá'í Publishing Trust. ISBN 0-87743-160-4. 
  2. ↑ Bản mẫu:Harvnb
  3. ↑ Bản mẫu:Harvnb
  4. ↑ Zarandi, Nabil. The Dawn-Breakers: Nabíl’s Narrative of the Early Days of the Bahá’í Revelation (ấn bản 1932). US: US Bahá’í Publishing Trust. tr. 595–651. 
  5. ↑ “The Life of Bahá'u'lláh”. Bahá'í International Community. 2013. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013. 

Bản mẫu:Sơ khai nhân vật Iran Bản mẫu:Thời gian sống

Lấy từ “https://vi.bahaipedia.org/index.php?title=Đức_Baha%27u%27llah&oldid=1078”
Thể loại:
  • Người sáng lập tôn giáo
Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 19 tháng 12 năm 2023, 03:51.
Nếu không có ghi chú khác, nội dung này được cấp phép Creative Commons Attribution-NonCommercial-ShareAlike 3.0 License.
Quy định quyền riêng tư
Giới thiệu Bahaipedia
Lời phủ nhận
Powered by MediaWiki